Ngày xưa có một chàng trai trẻ mang nhiều tâm sự u uất về cuộc đời, một sớm lên đường đi tìm sự thật.
Anh nghe nói ở một ngôi đền nọ có một vị Đạo Sĩ chân tu, luyện được nhiều phép mầu nhiệm, thông đạt được nhiều lẽ tinh vi, huyền diệu của vũ trụ, bèn quyết tìm đến học.
Đường đi muôn nỗi khó khăn, nhưng chí người sắt đá nên không kể hiểm nghèo. Từ chân trời, một hôm đền thiên đã lồ lộ hiện ra, uy nghi, rạng rỡ. Lòng người trai bừng rộn lên nỗi hân hoan.
Anh tìm đến biệt phòng của Đạo Sĩ, qùy dưới chân người:
Thưa Thầy! kẻ hèn này vốn từng ngưỡng mộ uy danh của Thầy, tin tưởng ở phép mầu nhiệm ở đạo, nên từ xa xôi muôn dậm đến đây để cầu mong Thầy chỉ cho con đường đi tìm chân lý.
Đại Sĩ bảo rằng:
Cửa đền không hẹp với một ai, lòng đền cũng chứa rộng mọi người. Con đường chân lý phát xuất từ đền thiêng ấy là vì sự thật phải bắt đầu tìm thấy bằng sự “yên tĩnh của tâm hồn, bằng lòng tin cẩn tin yêu của trí tuệ”. Từ đây đến chót đền, con đường chia làm ba bậc: bậc thứ nhất của sự khổ hạnh, bậc thứ nhì của lòng vô tư, bậc thứ ba của tình nhân ái. Ba bậc ấy dạy rằng: không dày công chịu khổ nhọc để biết rõ cuộc đời, không dứt bỏ được ý riêng tư khách quan nhìn xét sự vật, không thiết tha vì lòng thương mà đòi hỏi sự thực, thì không bao giờ tìm thấy sự thực. Sự thực hay chân lý là của mọi người, nhưng phải tìm đến bằng con đường ba bậc ấy.
Người trai trẻ cảm thấy vui mừng khôn xiết, vội hỏi:
- Thưa Thầy, vậy chân lý hiện ở trên chót đền?
Đạo Sĩ ôn tồn bảo:
Chính thế. Ta biết chắc rằng ở cuối cùng ba bậc, trên chót vót của đền Thiêng là tượng Thần Chân Lý. Tượng ấy hình dáng thế nào ta cũng chưa biết được, vì ta chỉ mới đi khỏi con đường khổ hạnh xong và đang vào bậc vô tư. Khó nhất là bậc thứ hai này vì gạt bỏ được những tư ý là điều hết sức nhọc nhằn đối với mọi người chúng ta. Còn qua một đoạn đường cuối cùng, đoạn đường nhân ái, là ta sẽ thấ y muôn vẻ huy hoàng của Chân Lý, nhưng con đường nhân ái khá gần mà cũng khá xa, bởi vì con người thường lầm lạc tình yêu, lòng yêu mình với lòng yêu kẻ khác, nên chỉ có ba mươi bước nữa mà ta còn lầm lẫn.
Đạo Sĩ lại tiếp:
Hiện nay trong đền có vô số người tìm học. Có kẻ xong bậc thứ nhất, có kẻ đang bước lên bậc thứ nhì, có kẻ đang loay hoay khởi sự từ đầu và biết bao kẻ đã thối chí trở về từ chối tìm hiểu sự thật, vì lòng họ không đủ tha thiết để chịu đựng bao nhiêu thử thách. Cửa đền vẫn luôn luôn mở rộng hãy tìm lối mà đi.
Từ đấy người trai trẻ bắt đầu học tập. Anh bước lên con đường khổ hạnh để cảm thông nỗi khổ của người đời. Từ đấy đối với anh, cảnh sắc chung quanh đã có phần thay đổi. Tiếng khóc lời reo, nước mắt và nụ cười cũng đượm vẻ khác lạ hơn xưa.
Anh không tiếp xúc sự vật bằng sự hời hợt của não tủy. Anh thấy được bề rộng, bề sâu và bề cao của mỗi âm thanh, mỗi ngày tưởng như gần gũi thêm được với loài người.
Nhưng mỗi sớm nhìn lên đỉnh đền chót vót, anh cảm thấy đường đi quá sức xa vời. Lòng anh không định nên con đường ba b ậc kia tuy ngắn mà quá dài vô tận. Anh ngắm nh ững bức tường ngăn cách, những bậc cấp cheo leo và muốn rút ngắn đoạn đường. Một hôm anh bỗng nảy ra một ý kiến.
Nhân một đêm trăng lặng anh dùng dây leo tường. Vốn từ nhỏ đã quen luyện tập, nên anh không mất bao nhiêu công phu để vượt khỏi những bức tường dày lởm chởm cheo leo. Càng lên cao nhìn xuống trở lại, anh thấ y mình đã làm được một kỳ công. Khi lên đến chót vót đền thì trăng đã về khuya, rọi bóng anh trên vách đá như một người to lớn dị thường, anh tự thấy mình xa cách hẳn loài người và cao hơn mọi vật. Anh tự nhủ:
Đi tìm thực sự không phải có một con đường ba bậc. Với óc thông minh, với lòng dũng cảm, với trí quyết đoán, ta vẫn tìm được chân lý mau chóng hơn mọi người.
Rồi anh bước vào đền, nơi đặt tượng thần chân lý. Anh đi giữa đêm khuya, trên chốn thượng tầng im lặng, dọc theo các dãy hành lang hun hút gió lạnh, chỉ thấy bóng mình lủi thủi bên cạnh và chỉ nghe chân mình dội vang trên sân đền gây nên những âm hưởng dị kỳ.
Anh đi lần vào trong, cảm thấy trong mỗi bước đi sự tịch mịch càng nặng nề. Khi mảnh trăng khuya đã khuất hẳn ngoài đền, anh thấy rúng động, nhưng lòng kiêu hãnh về cái kỳ công của mình lại khiến anh dẹp hết lo âu. Anh tự nhủ:
Bây giờ chỉ còn mình ta với sự thực. Tượng thần Chân Lý ở sau cánh cửa kia. Anh lại gần thu hết can đảm để xô cửa…!
Bỗng anh rú lên ôm lấy mặt và như một người bị xác chết dậy đuổi, anh hoảng hốt chạy ra khỏi đền, luống cuống húc đầu vào các cột đá, vấp trên bục cửa, ngã trên nền gạch nhưng sự kinh hoàng quá độ khiến anh tìm cách thoát thân.
Anh bám vào tường, tìm giây leo, vội vàng tuột xuống dưới chân đền.
Sáng hôm sau người ta tìm thấ y xác anh đã cứng lạnh dưới chân đền, nét mặt vẫn còn co túm lại trong một vẻ hãi hùng tột độ.
Vị đạo sĩ trầm ngâm đứng nhìn xác anh, rồi quay bảo học trò:
Đây là một kẻ không muốn tìm sự thực bằng chính đạo. Y đã đi theo con đường tà đạo, vì y cho rằng con đường ấy mau chóng hơn và chỉ có tài năng của y mới giúp y tới mau được. Y quên rằng cái tâm của người là chính yếu trong sự tìm kiếm chân lý. Khi cái tâm đã chính thì tài năng sẽ là những chiến công, những thành tích rỡ ràng. Khi cái tâm đã tà thì tài năng chỉ là những thủ đoạn, những mưu mô hèn hạ. Kết quả mà y tìm thấy là một sự thực gớm ghiếc, đã làm y khủng khiếp phải hủy diệt đời mình.
Các con hãy ghi nhớ: sự thực tốt đẹp, sự thực an ủi và nâng cao được lòng người chỉ có thể đi đến con đường ba bậc: Con đường khổ hạnh, con đường vô tư, và con đường nhân ái. Kẻ nào không đi bằng ngã ấy mà muốn dùng mưu mô thủ đoạn, đàn áp lừa phỉnh thì không phải chỉ một cá nhân mà cho đến một chế độ cũng phải bị hủy diệt thảm khốc.
Đạo sĩ ngừng lại một lát rồi nói tiếp:
Từ lâu ta đã nhắc các con điều đó, bây giờ đây là chứng cớ hiển nhiên. Các con hãy đem chôn xác y trước cửa đền và đồng thời tạc trên mộ bia y nét mặt kinh hoàng, khủng khiếp của một kẻ đã tìm gặp sự thực bằng con đường phản chánh đạo, để làm gương cho bao nhiêu kẻ khác.